Hiện nay, pháp luật chỉ cho phép việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo còn mọi hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại đều bị nghiêm cấm.
Theo khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại, mang thai giúp cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai, sinh con kể cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Việc mang thai hộ được thực hiện bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh ống nghiệm và cấy vào tử cung của người mang thai hộ để người này mang thai và sinh con.
Song song với đó, hiện nay có một hình thức mang thai hộ bị pháp luật nghiêm cấm là mang thai hộ vì mục đích thương mại. Trường hợp này là một người phụ nữ không phải tự nguyện mà vì mục đích kinh tế hoặc lợi ích khác mà sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để mang thai cho người khác.
Bởi việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và sinh con này không phải vấn đề chỉ liên quan đến hai vợ chồng mà có sự giúp đỡ tự nguyện của một người phụ nữ khác nên trên thực tế không thiếu trường hợp sau khi con sinh ra sẽ nảy sinh tranh chấp về việc xác định cha, mẹ cho con.
Bởi vậy, tại Điều 94 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã khẳng định rõ:
Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.
Theo đó, từ thời điểm con được sinh ra thì đứa bé là con chung của vợ chồng người nhờ mang thai hộ mà không phải con của người mang thai hộ.